Nằm trên địa bàn phường An Hải Bắc, Nại Hiên Đông
Điểm đầu là đường Đỗ Anh Hàn, điểm cuối là đường Nguyễn Trung Trực
Dài 399m
25m (mặt cắt lòng đường 15m; vỉa hè 5m)
Nguyễn Thị Định sinh ngày 15 tháng 3 năm 1920 và mất ngày 26 tháng 8 năm 1992, là tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Phó Tư lệnh Quân giải phóng Miền nam Việt Nam, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh. Bí thư Tỉnh uỷ Bến Tre, Phó Chủ tịch Hội đồng nhà nước, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Uỷ viên Trung ương Đảng khoá IV, V, VI. Đại biểu Quốc hội khoá VI, VII, VIII.
Năm 1936, bà tham gia phong trào Đông Dương đại hội như đi liên lạc, rải truyền đơn. Bà đã vận động bà con chống sự áp bức, bóc lột cường hào ở địa phương. Năm 1938, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng Tám năm 1945, bà tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Bến Tre.
Năm 1954, cuộc kháng chiến của nhân dân Bến Tre cùng với cả nước đã giành được thắng lợi. Những năm sau khi Hiệp định Genève (tháng 7 năm 1954), Bến Tre là một trọng điểm cần phải bình định của chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong thời gian này, bà là một trong những cán bộ chủ chốt của Đảng bộ Bến Tre, đã cùng với các cán bộ lãnh đạo khác ra sức bảo vệ cách mạng, bảo vệ nhân dân. Tháng 11 năm 1959, bà làm Phó bí thư Tỉnh ủy Bến Tre. Sau đó bà nhận nhiệm vụ về khu ủy Trung Nam Bộ (Khu 8 cũ) dự hội nghị tiếp thu Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đầu năm 1960, bà một trong những người lãnh đạo Đồng khởi Bến Tre và là người chỉ đạo trực tiếp cuộc Đồng khởi đợt I ở ba điểm xã Định Thủy, Bình Khánh và Phước Hiệp (thuộc huyện Mỏ Cày Nam hiện nay) thắng lợi, mở đầu cho phong trào Đồng khởi trong tỉnh và toàn miền Nam sau này. Sau cuộc Đồng khởi Bến Tre, bà làm Bí thư tỉnh ủy và Chủ tịch Mặt trận Giải phóng tỉnh Bến Tre.
Năm 1964, trong Đại hội dân tộc giải phóng miền Nam lần thứ nhất, bà được bầu làm Ủy viên Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương mặt trận. Năm 1965, bà giữ chức Phó Tư lệnh quân Giải phóng miền Nam; tại đại hội Phụ nữ toàn miền Nam, bà làm Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam. Năm 1974, bà được phong quân hàm Thiếu tướng quân đội nhân dân Việt Nam. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (sau năm 1975), bà giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước như: Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV, V, VI; Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VI,] VII, VIII; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Từ 1987 đến 1992, bà giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Ngày 26 tháng 8 năm 1992, bà từ trần tại Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 73 tuổi.