Địa điểm: Nằm trên địa bàn phường An Hải Bắc
Lý trình: Điểm đầu là đường Đông Kinh Nghĩa Thục, điểm cuối là đường Võ Văn Kiệt
Chiều dài toàn tuyến: Gồm 02 đoạn tổng chiều dài: 1.100m
Lộ giới đường:
Đoạn 01: 31m (mặt cắt lòng đường 10,5m; vỉa hè 5m)
Đoạn 02: 20,5m (mặt cắt lòng đường 10,5m; vỉa hè 5m)
Chiều dài toàn tuyến: Dài 1.100m
Tiểu sử nhân vật:
Chính Hữu (sinh năm 1926, mất năm 2007), tên khai sinh là Trần Đình Đắc, Quê ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Ông là một nhà thơ Việt Nam. Ông tham gia 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông nguyên là Đại tá, Phó cục trưởng cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục chính trị, Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật lần hai (năm 2000).
Ông học tú tài (triết học) ở Hà Nội trước Cách mạng tháng Tám. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ Đô, chiến đấu chống lại quân đội Pháp ở Hà Nội. Sau khi đưa chính phủ đầu não Việt Minh ra khỏi vùng chiến sự, đơn vị của ông rút quân về huyện Đông Anh và sống sót. Ông được đưa đi bồi dưỡng chính trị, làm chính trị viên đại hội (chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954).
Ông làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Tập thơ Đầu súng trăng treo (1966) là tác phẩm chính của ông. Bài thơ "Đồng chí" được in vào tháng 2 năm 1948. Thơ ông không nhiều nhưng lại có những bài thơ đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Ông đã sáng tác bài thơ "Đồng chí" mà sau này đã được phổ nhạc cho bài hát "Tình đồng chí". Bài hát đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính cách mạng của văn học thời kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954).
Ông được người Đà Nẵng vinh danh qua việc đặt tên đường trên địa bàn quận Sơn Trà vào năm 2019.
Chinh Huu street
Chinh Huu was born in 1926 and died in 2007. His birth name is Tran Dinh Dac. He was from Can Loc district, Ha Tinh province.
He is a Vietnamese poet. He took part in two uprisings against both France and America. He was a former Colonel, Deputy Director of the Department of Propaganda and Training under the General Department of Politics, Vietnam People's Army, former Deputy General Secretary of the Vietnam Writers' Association. He was awarded the second Ho Chi Minh Prize for literature and art by the State of Vietnam (2000).
Before the August Revolution, he attended baccalaureate (philosophical) classes in Hanoi. He enlisted in the Capital Regiment in 1946 and engaged in combat in Hanoi with the French army. After bringing the Viet Minh headquarters out of the war zone, his unit withdrew to Dong Anh district and survived. As a candidate for the Congress, he was sent for political training (Dien Bien Phu campaign in 1954).
Since 1947, he had been producing poetry, most of which is focused on soldiers and war. The collection of poems “Dau sung trang treo” (The Hanging Moon Gun Head) (1966) was his main work. The poem "Comrade" was printed in February 1948. Even though there aren't many of his poems, each one is distinct and contains unreleased feelings as well as precise language and visuals. He wrote the poem "Comrade," which was eventually turned into a song called "Comrade Love." The song has aroused strong emotions in the hearts of many generations. The poem is one of the most prevalent pieces of literature from the resistance battle against France that was written about revolutionary warriors (1946 - 1954).
He was honored by Da Nang people by naming streets in Son Tra district in 2019.