Nằm trên địa bàn các phường Mân Thái, Nại Hiên Đông
Điểm đầu là đường Ngô Quyền, điểm cuối đường nhánh phía Nam đường dẫn vào cầu Thuận Phước
Dài 1.763m
Mặt cắt lòng đường 15m - 21 m; vỉa hè 4,5m - 5m
Chu Huy Mân sinh năm 1913 và mất năm 2006. Ông có tên thật là Chu Văn Điều, quê ở xã Hưng Hòa, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Ông tham gia cách mạng năm 1929, vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930. Từ 1937 đến năm 1940, ông bị thực dân Pháp bắt giam nhiều lần ở nhà lao Vinh, đến năm 1940 đưa đi giam ở Đắc Lay rồi Đắc Tô, Kon Tum. Năm 1943, ông vượt ngục, tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia Ban Việt Minh tỉnh và Tỉnh ủy Quảng Nam, sau đó làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam.
Sau khi giành được chính quyền năm 1945, ông vào quân đội và lần lượt giữ các chức vụ: Chính trị viên Tỉnh đội Quảng Nam; sau đó làm Chủ tịch Ủy ban Quân chính 4 tỉnh Trung Bộ, Trưởng ban Kiểm tra Đảng, Quân Khu ủy viên Khu Việt Bắc.
Năm 1947 - 1949, ông là Trung đoàn trưởng, Bí thư Trung đoàn ủy các Trung đoàn 72, Trung đoàn 74 Cao Bằng và Trung đoàn 174 Cao - Bắc - Lạng. Tháng 5 năm 1951, ông làm Phó Chính ủy, sau đó làm Chính ủy Đại đoàn 316, Bí thư Đảng ủy Đại đoàn 316, tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Tháng 8 năm 1954, ông là Đoàn trưởng, Bí thư Đảng ủy Đoàn Chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào. Năm 1957, ông giữ chức Chính ủy Quân khu IV; năm 1958, là Chính ủy Quân khu Tây Bắc kiêm Bí thư Khu ủy Tây Bắc.
Năm 1961, ông làm Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Quân khu IV. Tháng 8-1965, làm Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Mặt trận B3 - Tây Nguyên. Năm 1967 - 1975, ông là Tư lệnh Quân khu V, Phó Bí thư Đảng ủy Quân khu, Chính ủy chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Năm 1975 - 1976, ông là Chính ủy, kiêm Tư lệnh, Bí thư Đảng ủy Quân khu V.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng năm 1976, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và được Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị và được cử giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Trưởng ban Kiểm tra Đảng ủy Quân sự Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị (1977 - 1986), phụ trách công tác giúp Cách mạng Lào, Giám đốc Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc (năm 1980).
Ông là Đại biểu Quốc hội khoá II, VI, VII; được Quốc hội bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước khóa VII; là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá III, IV, V; Ủy viên Bộ Chính trị khoá IV, V.
Ông được phong quân hàm Thiếu tướng năm 1958, vượt cấp lên Thượng tướng năm 1974, Đại tướng năm 1980. Ông được Nhà nước trao tặng: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất và nhiều Huân chương cao quý khác.